ĐỜI SỐNG, TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ONG MẬT
Công việc vừa giới thiệu (như: chọn giống, mua ong, tìm chỗ đặt ong, quản lý đàn ong ban đầu…) chỉ là công việc bước đầu nhằm nhanh chóng có đàn ong mật giống để nuôi. Muốn nuôi ong có hiệu quả và làm chủ được đàn ong, phải có hiểu biết đầy đủ về đời sống, tổ chức và hoạt động của đàn ong mật.
1. Đời sống của ong mậtOng mật cũng như kiến, mối…là côn trùng sống thành xã hội. Cái khác, ong mật đã là một kiểu xã hội đa hình thái có tổ chức cao. Tính đa hình thái thể hiện ở chỗ trong tổ ong xuất hiện 3 loại thành viên. Các thành viên có cấu tạo và chức phận khác nhau nhưng lại có liên quan chặt chẽ với nhau. Nếu một vài cá thể bị tách khỏi đàn sẽ không sống nổi. Các thành viên đó là: Ong chúa: có màu sẫm, lớn hơn ong thợ và đặc biệt có phần bụng phát triển và kéo dài. Đó là thành viên duy nhất có chức năng sinh sản, không thể thiếu được với sự sống còn của đàn ong. Ong chúa gặp điều kiện thuận lợi mỗi ngày có thể đẻ tới trên dưới 1000 trứng, mỗi ngăn tổ 1 trứng, xếp thành vòng tròn xoáy trôn ốc từ giữa bánh tổ ra phía ngoài. Nếu ong chúa nào đẻ lỗ trỗ, đứt quãng thì chứng tỏ chúa đã già. “Chất chúa” do ong chúa tiết ra, được ong thợ phân đều đi các đàn, góp phần điều khiển đàn ong hoạt động về các mặt:
-Kích thích ong thợ làm việc: thí dụ tổ ong đang mất chúa, nếu có chúa mới, lập tức sẽ hoạt động sôi nổi hẳn lên.
- Kìm hãm sự phát triển buồng trứng của các ong thợ: ong thợ cũng nở ra từ trứng được thụ tinh như ong chúa nhưng thiếu buồng trứng. Chính “chất chúa”sẽ góp phần kìm hãm buồng trứng đó suốt đời.
Ong thợ: có màu sáng và kích thước nhỏ hơn ong chúa nhưng có cánh và giác quan phát triển hơn. Đó là những ong cái phát triển không đầy đủ, nên không sinh đẻ được nhưng có khả năng thực hiện nhiều công việc hơn như: tiết sáp, xây tổ, nuôi ong chúa, nuôi ong non, lấy và chế biến phấn, mật, làm vệ sinh và bảo vệ tổ ong… Ong thợ là thành viên đông đảo nhất của tổ ong, có từ 10.000 đến 30.000 thậm chí 50000 cá thể ở mỗi tổ. Tuổi thọ ong thợ khoảng trên dưới 40 ngày tùy mùa. Thời gian có nguồn hoa, ong thợ phải lao động suốt ngày đêm, tuổi thọ của chúng bị rút ngắn.
Ong đực: Có mầu sẫm, kích thước lớn nhưng chỉ thân to, còn bụng ngắn. Ong đực sinh ra từ những trứng không thụ tinh và chỉ xuất hiện khi đàn ong chuẩn bị thay thế chúa hay chia đàn. Ong đực không có khả năng lao động, chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là thụ tinh cho ong chúa mà thôi. Hàng ngày, nếu thời tiết tốt, chúng thường bay ra khoảng 5 7 lần từ 9h sáng đến 15h chiều. Hết mùa gia phối (cuối xuân, cuối thu)ong đực không sinh ra tiếp nữa. Số còn lại chết dần mòn. Nếu thời tiết xấu hay thức ăn trong tổ kém thì ong đực bị ong thợ không cho ăn nữa, thậm chí xua đuổi chúng ra khỏi tổ.
2. Sinh sản và phát triển của ong mật.
Sinh sản: Sau khi ra đời ong chúa mất khoảng 3 ngày để hoàn chỉnh bộ máy sinh sản rồi bắt đầu bay ra khỏi tổ để giao phối với ong đực. Từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 7, ong chúa bay ra nhiều lần. Nhờ chất dẫn dụ sinh dục (feromon) do ong chúa tiết ra, chúng thu hút hàng trăm con vật bay theo.

Nếu có sự cố bất thường như: chia đàn hay mất chúa một thời gian dài thì trong tổ xảy ra tình trạng thiếu ong thợ non (tức ít tuổi). Lúc ấy các chức phận trên có sự điều chỉnh sang các lứa tuổi kế cận để các công việc chủ yếu của đàn ong vẫn được thực hiện một cách đồng bộ.